Vài năm qua là giai đoạn khó khăn đối với nhiều hộ gia đình, nhưng theo các đại diện, người khuyết tật đã phải vật lộn đặc biệt vất vả.
Một báo cáo gần đây của Bộ Phát triển Xã hội New Zealand đã công bố dữ liệu cho thấy một nửa số người dân nước này phải cắt giảm chi tiêu cho rau củ quả khi chi phí tăng cao, và nhiều người còn phải trì hoãn việc đi khám bác sĩ.
Tuy nhiên, dữ liệu cũng chỉ ra rằng tình hình còn tồi tệ hơn đối với người khuyết tật.
Nhìn chung, hai trong số năm người New Zealand cho biết họ không có đủ thu nhập. Nhưng chỉ 44,2% người khuyết tật báo cáo có đủ hoặc dư dả thu nhập để đáp ứng nhu cầu hàng ngày vào năm 2023 – một sự sụt giảm đáng kể so với mức 61,7% dân số khuyết tật vào năm 2021.
Bà Tania Thomas, Giám đốc vận động của IHC, cho biết những người khuyết tật trí tuệ có khả năng gặp khó khăn tài chính cao gấp đôi ở độ tuổi dưới 39 và cao gấp ba lần ở độ tuổi từ 40 đến 64.
Họ có khả năng phải cắt giảm rau củ quả do chi phí cao gấp ba lần, và khả năng phải chịu lạnh vì không đủ tiền sưởi ấm cao gấp đôi. Trẻ em khuyết tật trí tuệ có nguy cơ bỏ lỡ các sự kiện ở trường do chi phí cao gấp sáu lần rưỡi.
“Hầu hết những người khác sẽ ít gặp khó khăn hơn khi họ lớn tuổi, nhưng điều đó không đúng với người khuyết tật trí tuệ. Điều này có lẽ liên quan nhiều đến việc tìm kiếm việc làm cho họ khó khăn hơn… Thường thì những công việc mà người khuyết tật trí tuệ có được không giúp họ thoát khỏi cảnh nghèo đói, vì vậy cần nhiều hơn là chỉ có một công việc để tạo ra sự khác biệt.”
Bà Thomas cho rằng cần có một kế hoạch do chính phủ dẫn dắt để giảm nghèo cho người khuyết tật, bao gồm hỗ trợ tài chính có mục tiêu. Bà nói: “Họ không chỉ sống trong cảnh khó khăn và cực kỳ khó khăn, mà việc xin thêm tiền hỗ trợ cũng là một cơn ác mộng. Đó là một quy trình rất quan liêu. Vì vậy, bạn không chỉ căng thẳng vì không đủ tiền chăm sóc gia đình, mà còn phải trải qua một quy trình gian nan để nhận được bất kỳ khoản hỗ trợ nào, và rồi có thể bạn cũng chẳng nhận được gì.”
Không chỉ bản thân người khuyết tật bị ảnh hưởng mà cả gia đình họ cũng chịu tác động.
Tại Kerikeri, bà Tracey Jenkins chăm sóc bốn đứa trẻ khuyết tật, trong đó có ba cháu ngoại của bà. Bà cho biết đứa cháu chín tuổi của mình không đi học, điều này khiến bà khó đi làm.
“Vì cháu thường xuyên có những cơn khủng hoảng lớn và nhà trường không thể xử lý được. Họ cứ gọi điện cho tôi suốt và tôi phải đến đón cháu, rồi phải nói với chỗ làm rằng ‘xin lỗi tôi phải đi đón con ở trường’.”
Bà phải lái xe đưa cháu và một đứa trẻ khác từ Kerikeri đến Whangārei để tham gia chương trình Pathways for Learning mỗi tuần một lần. Bà nói: “Cháu cũng đi cưỡi ngựa, cháu rất thích… bạn không đủ tiền xăng để đi thường xuyên nhưng bạn vẫn phải đi, vì vậy tiền phải đến từ một nguồn khác. Đó là điều tốt cho cháu, đó là liệu pháp cho cháu, giúp cháu điều hòa cảm xúc.”
Bà cho biết cháu cũng gây ra những hư hại ở nhà mà bà phải chi trả. “Về mặt tài chính, không bao giờ là đủ.”
Bà Rebekah Graham, Giám đốc quốc gia của Parents of Vision Impaired NZ (Hội Phụ huynh Trẻ em Khiếm thị New Zealand), cho biết bà cũng chia sẻ những lo ngại của IHC.
“Tất cả các số liệu thống kê đều khá rõ ràng rằng người khuyết tật và gia đình họ có nhiều khả năng rơi vào tình trạng nghèo vật chất và có tỷ lệ cao hơn ở tất cả các mức độ nghèo đói.”
Bà Graham đề xuất rằng các khoản trợ cấp khuyết tật và trợ cấp sinh hoạt hỗ trợ nên được điều chỉnh theo tăng trưởng tiền lương, thay vì chỉ theo lạm phát như hiện tại, để chúng có thể theo kịp các khoản thu nhập khác.
“Nhiều thành viên gia đình chăm sóc người khuyết tật đang nhận trợ cấp sinh hoạt hỗ trợ, nhưng chúng ta lại không coi khoản trợ cấp này như lương hưu, điều đó gây ra rất nhiều khó khăn… Nếu chúng ta chuyển khoản trợ cấp sinh hoạt hỗ trợ thành một phúc lợi như lương hưu, không bị kiểm tra thu nhập và không phụ thuộc vào đối tác, điều đó sẽ tạo ra sự khác biệt lớn ngay lập tức.”
Hiện tại, điều kiện nhận trợ cấp phụ thuộc vào tổng thu nhập của hộ gia đình. Bà nói rằng điều này có nghĩa là những người tìm được bạn đời, chẳng hạn, không thể chuyển đến sống cùng nếu bạn đời không gánh vác trách nhiệm tài chính cho họ.
“Điều đó cũng có nghĩa là đối với những người có khả năng làm việc nhưng không thể làm việc toàn thời gian, họ sẽ không phải đối mặt với tình huống khó khăn này, khi bạn chỉ có thể kiếm được một mức thu nhập nhất định trước khi trợ cấp của bạn bị ảnh hưởng. Sẽ dễ dàng hơn nhiều để nói rằng tôi có thể làm việc 10 giờ một tuần và làm tốt công việc đó. Hoặc tôi có thể làm việc 25, 30 giờ một tuần nhưng có thể có những tuần tôi phải nhập viện hoặc quá sức, hoặc tôi cần nghỉ ngơi.”
Bà Graham cho biết những người có con có thể đi học thì có thể làm việc bán thời gian, nhưng điều đó trở nên khó khăn hơn trong những trường hợp như bà Jenkins, nơi trường học không phải là một lựa chọn đáng tin cậy.
Bà Graham nhận định rằng trong khi hầu hết mọi người có thể làm việc nhiều hơn khi con cái lớn lên, thì điều ngược lại thường đúng trong bối cảnh khuyết tật.
“Một khi con bạn rời hệ thống trường học ở tuổi 21, nếu chúng nhận được hỗ trợ từ Chương trình Cung cấp Nguồn lực Liên tục (ORS) cho đến năm 21 tuổi, thì sau đó không có nhiều lựa chọn cho chúng… và đó là lúc nhiều phụ nữ, thay vì chuyển sang làm việc toàn thời gian, phát triển sự nghiệp, đào tạo lại hoặc làm tất cả những điều mà phụ nữ thường làm khi con cái lớn lên, bạn lại phải từ bỏ tất cả những điều đó và ở nhà làm người chăm sóc toàn thời gian cho một người 21 tuổi… Các chương trình ban ngày thì hơi lộn xộn và không có kế hoạch rõ ràng.”
Bà cho biết nhiều hỗ trợ được cung cấp dưới dạng trợ cấp nhưng không đủ để chi trả toàn bộ chi phí.
“Nó trợ cấp một phần chi phí nhưng vẫn còn một khoản chi phí đáng kể mà người khuyết tật và gia đình họ phải gánh chịu.”
Theo rnz.co.nz