Bờ Tây New Zealand hồi sinh: Chim chóc và cây cối trở lại sau chiến dịch diệt trừ loài săn mồi

The Waitangiroto Nature Reserve is home to the country's only Kōtuku breeding ground and the rainforest has benefited from predators being eliminated.

Khu bảo tồn thiên nhiên Waitangiroto là nơi duy nhất ở New Zealand có bãi sinh sản của loài Kōtuku (diệc trắng), và rừng mưa tại đây đã hưởng lợi đáng kể từ việc loại bỏ các loài săn mồi.

Các nhà điều hành du lịch tại Bờ Tây cho biết họ đang chứng kiến sự trở lại của nhiều loài chim và thực vật mà trước đây họ không hề biết là từng sinh sống trong khu vực, kể từ khi các loài săn mồi bị loại bỏ.

Dự án ‘Predator Free South Westland’ (Bờ Tây Nam không loài săn mồi) đặt mục tiêu loại bỏ hoàn toàn mọi loài chồn túi, chuột và chồn ecmin khỏi khu vực rộng 100.000 hecta, trải dài từ Dãy núi Alps phía Nam ra biển.

Họ đã hoàn thành hơn 90% mục tiêu đề ra.

Chỉ cách Whataroa một đoạn lái xe ngắn là Khu bảo tồn thiên nhiên Waitangiroto, nơi duy nhất ở New Zealand có bãi sinh sản của loài kōtuku.

White Heron Sanctuary Tours là công ty du lịch duy nhất được phép đưa du khách tham quan, dẫn họ xuyên qua rừng mưa đến một điểm ẩn nấp đặc biệt.

Giám đốc điều hành Dion Arnold chia sẻ, nhiều khu vực trong rừng trước đây trông như thể bị máy cắt cỏ càn qua.

Giám đốc điều hành White Heron Sanctuary Tours, Dion Arnold, cho biết nhiều khu vực trong rừng từng trông như bị máy cắt cỏ càn qua, nhưng giờ đây đã hồi phục nhờ không còn loài săn mồi.

White Heron Sanctuary Tours managing director Dion Arnold said parts of the forest used to look like a lawn mower has been through it but it was recovering without predators.
White Heron Sanctuary Tours managing director Dion Arnold said parts of the
forest was recovering without predators. – Photo: Tess Brunton / RNZ

Tuy nhiên, mọi thứ đã thay đổi hoàn toàn kể từ khi dự án Predator Free South Westland đẩy mạnh hoạt động.

Ông nói: ‘Chúng tôi đang thấy các loài thực vật và chim chóc quay trở lại khu bảo tồn, những loài mà chúng tôi thậm chí không biết là từng tồn tại ở đây’.

‘Chúng tôi đang thấy rất nhiều loài dương xỉ mỏng, rêu tản, cùng nhiều loại cây đang tái sinh như dương xỉ “gà mẹ và gà con” và đủ mọi thứ khác mọc lên, điều mà trước đây chúng chưa bao giờ có cơ hội vì bị các loài gây hại gặm nhấm hết’.

Một chú chim kererū trong Khu bảo tồn thiên nhiên Waitangiroto.

A kererū in the Waitangiroto Nature Reserve.
A kererū in the Waitangiroto Nature Reserve. – Photo: Tess Brunton / RNZ

Kākāriki (vẹt mào vàng) là một trong những loài mà ông nhận thấy đang phát triển mạnh mẽ khi số lượng loài săn mồi giảm đi.

Ông kể: ‘Tôi đã sống ở đây cả đời và chúng tôi đã tổ chức các chuyến tham quan này từ rất lâu. Chúng tôi chưa bao giờ nghe thấy tiếng kākāriki trong khu rừng này suốt thời gian hoạt động. Nhưng trong ba năm gần đây, chúng tôi bắt đầu nghe thấy chúng nhiều hơn một chút mỗi năm’.

Doanh nghiệp gia đình này đã đặt bẫy trong khu vực khoảng 40 năm.

Dion Arnold cho biết các loài thực vật mỏng manh trong Khu bảo tồn thiên nhiên Waitangiroto có cơ hội sống sót tốt hơn sau khi các loài săn mồi bị loại bỏ.

Dion Arnold said delicate plants in the Waitangiroto Nature Reserve had a better chance of survival once the predators were removed.
Dion Arnold said delicate plants in the Waitangiroto Nature Reserve had a better
chance of survival once predators were removed. – Photo: Tess Brunton / RNZ

Arnold nói: ‘Loại bỏ hoàn toàn chúng khỏi khu vực, giờ đây chúng tôi đã đạt đến con số không. Chúng tôi có thể trải qua nhiều tháng mà không bẫy được con nào ở quanh đây. Thật tuyệt vời’.

Ông chia sẻ thêm: ‘Khắp xung quanh chúng tôi, tiếng chim tūī, bellbird, grey warblers, fantails và tomtits vang vọng. Việc nhìn thấy số lượng lớn các loài chim này, thay vì chỉ một hoặc hai con, nghe thấy tiếng hót xa xa, giờ đây là những đàn 30-40 con đậu trên cây phía trên chúng tôi, thật đáng kinh ngạc. Đó chính là sự khác biệt khi loại bỏ hoàn toàn loài gây hại khỏi một khu vực’.

Ông khẳng định, việc không còn loài săn mồi là một cơ hội lớn.

Ông nói: ‘Đây là một sự thay đổi lớn lao. Điều khác biệt lớn ở đây là đây là một mô hình mà chúng tôi hy vọng trong tương lai có thể được triển khai ở các khu vực khác trên cả nước. Trước mắt, du lịch nội địa đang phát triển mạnh ở khu vực này vì mọi người quan tâm đến việc đến và xem điều gì có thể xảy ra ở khu vực của họ’.

Bên kia Hồ Mapourika, trong Rừng Ōkārito phía Nam, Franz Josef Wilderness Tours có một con đường mòn xuyên qua khu bảo tồn kiwi rowi.

Giám đốc Dale Burrows cho biết họ bắt đầu tham gia đặt bẫy không lâu sau khi phát triển con đường mòn này.

Giám đốc Franz Josef Wilderness Tours, Dale Burrows, cho biết ông đã nhận thấy rừng đang tái sinh kể từ khi các loài săn mồi bị loại bỏ khỏi Rừng Ōkārito phía Nam. Công ty của ông đưa du khách đi trên một con đường mòn xuyên qua khu bảo tồn kiwi rowi.

Franz Josef Wilderness Tours director Dale Burrows said he has noticed the forest regenerating since predators were removed from the South Ōkārito Forest. His company takes visitors on a track through the rowi kiwi sanctuary
Franz Josef Wilderness Tours director Dale Burrows said he has noticed the
forest regenerating since predators were removed from the South Ōkārito Forest.
Photo: Tess Brunton / RNZ

Ông kể: ‘Một ngày nọ, khi đang đi bộ trên đường mòn, tôi nhận thấy một vỏ trứng nằm cạnh một cái lỗ nhỏ dẫn xuống dưới gốc cây rimu khổng lồ và tôi nghĩ ‘chắc chắn có điều gì đó đang xảy ra ở đây”.

‘Vì vậy, tôi đã mang một cái bẫy ra và đặt nó, và trong tháng đầu tiên, chúng tôi đã bắt được sáu con chồn ecmin chỉ từ một cái bẫy đó’.

Đi ngang qua một trong những chiếc bẫy hộp, ông nói rằng giờ đây chúng được dùng để giáo dục và kể câu chuyện về khu vực không còn loài săn mồi.

Ông cho rằng việc truyền tải thông điệp là cực kỳ quan trọng để mọi người hiểu tại sao công việc này lại cần thiết, sự khác biệt mà nó đang tạo ra và những gì họ đang cố gắng đạt được.

Burrows nói: ‘Chúng tôi đang thấy những hạt giống trên mặt đất mà trước đây luôn bị gặm nhấm, giờ thì không. Vì vậy, đột nhiên chúng tôi thấy cây cối mọc lên’.

‘Chúng tôi đang thấy hoa kiekie nở trong vài năm gần đây, điều mà tôi chưa bao giờ thấy trước đây vì chúng đã bị chuột và chồn túi ăn hết’.

Franz Josef Wilderness Tours cho du khách xem các bẫy hộp để giáo dục họ về câu chuyện không loài săn mồi.

Franz Josef Wilderness Tours show visitors box traps to educate them about the predator free story.
Franz Josef Wilderness Tours show visitors box traps to educate them about the
predator free story. – Photo: Tess Brunton / RNZ

Ông nói: ‘Chúng tôi bắt đầu thấy những hiệu ứng tiếp theo, đúng vậy, chim chóc đang quay trở lại. Nhưng thực ra, chính khu rừng cũng đang bắt đầu tái sinh’.

Đồng giám đốc Okarito Kayaks, Barry Hughes, cho biết Ōkārito luôn là một thành trì về đa dạng sinh học, nhưng các loài săn mồi đã gây ra thiệt hại đáng kể trước khi chiến dịch loại bỏ chúng được triển khai.

Trước đây, ông chỉ thấy hoặc nghe tiếng kākāriki khoảng sáu tháng một lần, nhưng giờ đây điều đó xảy ra gần như mỗi khi họ chèo thuyền hoặc đi bộ qua rừng.

Ông kể: ‘Dù là chim bồ câu rừng đậu trên cây, hay thực sự là vấp phải những con chim dương xỉ. Chúng tôi đi giặt áo phao ở bồn tắm phía sau cửa hàng thuyền kayak và một con chim dương xỉ sẽ lao ra từ dưới bồn tắm trong khi chúng tôi đang làm việc’.

Ông cho biết, Ōkārito đã trở thành nơi trú ngụ của những đàn vẹt kea ‘quậy phá’ kể từ khi không còn loài săn mồi.

Đồng giám đốc Okarito Kayaks, Barry Hughes, cho biết thiên nhiên là động lực chính thu hút du khách, vì vậy công việc loại bỏ loài săn mồi đã mang lại sự thay đổi lớn cho khu vực.

Okarito Kayaks co-director Barry Hughes said nature was the driving force for why people visited so the predator free work was transformational for the region.
Okarito Kayaks co-director Barry Hughes said nature was the driving force for
why people visited so the predator free work was transformational for the
region. – Photo: Tess Brunton / RNZ

Ông nói: ‘Vài năm trước, chúng tôi có sáu con vẹt non sống ở đây trong sáu tháng, chúng đã quấy phá cả làng và chúng tôi phải học cách thích nghi với chúng. Chắc chắn là có một vài ống khói và phương tiện phải được bảo vệ cẩn thận hơn một chút’.

Tuy nhiên, Hughes cho biết ông thà chọn những con vẹt kea tinh nghịch và phải né tránh nhiều phân chim hơn là đối mặt với các loài săn mồi bất cứ lúc nào.

Ông nói, Bờ Tây Nam có cơ hội để khẳng định vị thế và tuyên bố sở hữu những giá trị tự nhiên tốt nhất cả nước.

Ông chia sẻ: ‘Đây là một tuyên bố rất mạnh dạn, nhưng tôi nghĩ đó là một tầm nhìn mà chúng ta có thể hướng tới cho khu vực này, để vừa tự hào về những gì chúng ta có, vừa để điều đó có thể hỗ trợ cộng đồng của chúng ta về mặt kinh tế và xã hội’.

Wayne Costello, quản lý hoạt động của DOC (Bộ Bảo tồn) tại Bờ Tây Nam, cho biết mục tiêu không loài săn mồi mang lại lợi ích vượt ra ngoài rừng và động vật hoang dã.

Wayne Costello, quản lý hoạt động của DOC tại Bờ Tây Nam, cho biết ông chưa bao giờ thấy kākāriki trước khi dự án không loài săn mồi được triển khai.

DOC's South Westland operations manager Wayne Costello said he had never seen kākāriki before the predator free project took hold.
DOC’s South Westland operations manager Wayne Costello said he had never seen
kākāriki before the predator free project took hold. – Photo: Tess Brunton / RNZ

Ông nói: ‘Khi các sông băng rút đi và việc mọi người đến xem những cảnh quan đó ngày càng khó khăn hơn, việc đa dạng hóa cơ hội cho du khách khi họ đến vùng sông băng hay Bờ Tây Nam, và trải nghiệm thiên nhiên mà bạn sẽ không tìm thấy ở bất kỳ nơi nào khác ở New Zealand nhờ sự phong phú và cách thức bảo vệ nơi đây, tôi cho rằng, sẽ là một phần quan trọng trong tương lai của chúng ta’.

Khi thông tin lan rộng, các nhà điều hành cho biết việc đạt được mục tiêu không loài săn mồi không chỉ là cơ hội cho công tác bảo tồn mà còn cho cả nền kinh tế địa phương.

Theo rnz.co.nz

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *