Vào thứ Năm tuần này, chương trình nghị sự thường lệ của Quốc hội đã được gác lại khi Hạ viện dành cả ngày họp để tưởng niệm sự ra đi của Jim Bolger, Thủ tướng New Zealand từ năm 1990 đến 1997.
Trong bảy năm lãnh đạo đất nước, ông Bolger đã dẫn dắt chính phủ Quốc gia thứ tư trải qua một loạt các cột mốc chính trị quan trọng, bao gồm quá trình chuyển đổi sang hệ thống bầu cử MMP, ban hành luật quản lý tài nguyên, và – như nhiều nghị sĩ đã nhấn mạnh vào thứ Năm – những giai đoạn đầu của tiến trình dàn xếp Hiệp ước.
Khi một nhân vật công chúng quan trọng như cựu thủ tướng qua đời, theo thông lệ của Quốc hội, một loạt các bài điếu văn sẽ được đọc, bắt đầu từ thủ tướng đương nhiệm.
“Với tư cách là thủ tướng, Jim đã dẫn dắt New Zealand trải qua những thay đổi sâu rộng về kinh tế, xã hội và hiến pháp, từ cải cách tài khóa lớn, bao gồm ‘ngân sách mẹ của mọi ngân sách’, đến chuyển đổi quan hệ công nghiệp và giám sát các giai đoạn đầu của các thỏa thuận Hiệp ước,” Thủ tướng Christopher Luxon phát biểu.
“Ông cũng là người ủng hộ mạnh mẽ vị thế của New Zealand trên trường quốc tế. Ông đã ủng hộ liên minh của chúng ta với Hoa Kỳ nhưng vẫn tôn trọng ý chí của người dân New Zealand và duy trì lập trường phi hạt nhân. Ông kiên quyết phản đối thử hạt nhân ở Thái Bình Dương, và ông đã giúp định hình lại chính sách đối ngoại của chúng ta theo hướng cởi mở hơn, gắn kết hơn với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, một cách tiếp cận vẫn định hướng cho chính phủ của chúng ta ngày nay.”
Ông Bolger vẫn tiếp tục hoạt động chính trị rất lâu sau khi rời nhiệm sở, và như Chris Hipkins của Đảng Lao động đã chỉ ra, điều đó bao gồm việc ủng hộ cho người Māori.
“Công việc của ông nhằm thúc đẩy người Māori và tiến trình dàn xếp Hiệp ước xứng đáng được đặc biệt nhắc đến. Tôi biết ông được kính trọng đến nhường nào tại các marae (nhà họp cộng đồng Māori) và các iwi (bộ lạc) trên khắp đất nước. Trong một trong những cuộc phỏng vấn cuối cùng của mình, chỉ vài tuần trước, trớ trêu thay lại với một thành viên trẻ hơn của Đảng Lao động, ông đã bày tỏ lo ngại rằng rất nhiều người New Zealand hiện nay dường như sợ hãi từ ‘Māori’.
“Ông nhắc nhở chúng ta rằng khi người Māori phát triển tốt, tất cả chúng ta cũng sẽ phát triển tốt. Ông cũng đưa ra một lời cảnh báo nghiêm túc rằng cho đến khi những bất công trong quá khứ được giải quyết và người Māori thịnh vượng, chúng ta sẽ không bao giờ có thể thực sự bỏ lại phía sau những xung đột trong quá khứ.”
Là một người chồng, người cha và người ông, ông Bolger đã để lại chín người con và 18 cháu. Teanau Tuiono của Đảng Xanh đã hóm hỉnh gợi ý rằng khả năng quản lý một gia đình lớn (whanau) của cựu thủ tướng đã mang lại những kỹ năng hữu ích trong việc ông giao tiếp với người Māori.
“Khi tôi lướt mạng xã hội, tôi thấy nhiều lời tri ân từ nhiều cộng đồng Māori – những cộng đồng mà ông đã giúp đỡ trong việc giải quyết các yêu cầu dàn xếp Hiệp ước. Khi nhìn vào quy mô whānau (gia đình) của ông, tôi phải nghĩ rằng có lẽ khả năng khéo léo của ông trong việc làm việc với nhiều cộng đồng Māori là vì ông có iwi (bộ lạc) và hapū (nhóm bộ lạc) của riêng mình.”
Vào thời điểm tiến trình dàn xếp Hiệp ước lần đầu tiên được giới thiệu, khái niệm này còn xa lạ, và đối với một số người thậm chí là cấp tiến. Bối cảnh chính trị đầu những năm 1990 thường không mấy chào đón những ý tưởng như vậy. Tuy nhiên, ông Bolger vẫn kiên trì.
“Nhiều người sẽ biết rất rõ lịch sử – những thay đổi đã diễn ra vào những năm 1990, đặt nền móng và tiếp tục quá trình cải cách kinh tế đưa New Zealand vào thế giới hiện đại, và sự hòa giải thông qua tiến trình dàn xếp Hiệp ước, nếu không có nó, New Zealand ngày nay sẽ không thể hình dung được. Tuy nhiên, thật dễ dàng quên đi sự dũng cảm và khó khăn khi bắt đầu tiến trình dàn xếp Hiệp ước vào năm 1992.”
Trong khi Chủ tịch Hạ viện Gerry Brownlee được bầu vào Quốc hội vào cuối nhiệm kỳ của ông Bolger, Winston Peters là nghị sĩ đương nhiệm duy nhất có thể khẳng định đã làm việc cùng ông trong Nội các.
“Ông tự hào về tổ tiên người Ireland của mình và nhìn thấy một sự tương đồng lịch sử trong cách đối xử với những người theo chủ nghĩa dân tộc Ireland với những sai lầm của một số chính phủ New Zealand trước đây đối với người Māori ở New Zealand. Là một nông dân ở Te Kūiti, ông lớn lên giữa những người Māori và thấy không có lý do gì để phân biệt, mà chỉ có mọi lý do để các cộng đồng cùng nhau mạnh mẽ hơn.”
Lãnh đạo Te Pāti Māori (Đảng Māori) Debbie Ngarewa-Packer đã nói về ông Bolger một cách trìu mến và sự cống hiến của ông cho sự công bằng trong mối quan hệ giữa Hoàng gia và người Māori, thậm chí còn gọi ông là Thủ tướng vĩ đại nhất của chúng ta kể từ Michael Joseph Savage của Đảng Lao động.
“Công việc của ông tại bàn Nội các đã thổi hồn vào các nguyên tắc thiện chí và lòng tốt đối với tất cả mọi người. Chúng ta sẽ nhớ cam kết của ông Bolger trong việc khôi phục danh dự của Hoàng gia theo Hiệp ước Te Tiriti o Waitangi. Ông biết rằng Hiệp ước Te Tiriti o Waitangi hứa hẹn một vị trí cho tất cả mọi người trong đất nước này, và rằng tất cả chúng ta đều có tình yêu, và nên có tình yêu, dành cho nhau.
“Sự lãnh đạo của ông là một bài học: không nên bôi nhọ hay phá vỡ mối quan hệ với các cộng đồng Māori, mà hãy ôm lấy nhau trong tinh thần hòa bình thông qua công lý, cùng nhau sở hữu quá khứ của chúng ta và hợp tác hướng tới tương lai.”
“Ông Bolger đã chủ động mở rộng vốn chính trị vì sự tiến bộ của quốc gia và để giải quyết những bất công lịch sử. Tính cách của ông được nhiều người mà chúng tôi cũng đã nói chuyện mô tả là tuyệt vời, hòa nhập, và quả thực là một người Ireland đáng tự hào – mang lại cho ông biệt danh ‘Spud’. Đối với chúng tôi, Bolger được coi là Thủ tướng vĩ đại nhất kể từ Michael Savage. Ông đã để lại một di sản ảnh hưởng đến cả đất nước. Ông đã lắng nghe và nhìn thấy te iwi Māori (người dân Māori).”
Theo rnz.co.nz