Thị trường chứng khoán New Zealand đã giảm ngay 2% khi mở cửa.
S&P Dow Jones Indices đã công bố Bảng điểm Spiva giữa năm của mình, cho thấy 60% các quỹ cổ phiếu toàn cầu được quản lý chủ động tại New Zealand đã có thể vượt trội so với Chỉ số S&P World trong nửa đầu năm nay.
Điều này dựa trên lợi nhuận sau khi trừ phí.
Bảng điểm này xem xét hiệu suất của các quỹ được quản lý chủ động so với các chỉ số tham chiếu trong nhiều khoảng thời gian khác nhau.
Các nhà quản lý quỹ chủ động là những người lựa chọn các khoản đầu tư cho quỹ của họ, nhằm mục đích vượt trội so với thị trường. Ngược lại, các quỹ thụ động thường hướng tới việc theo dõi một chỉ số.
Bà Sue Lee, người đứng đầu chiến lược đầu tư chỉ số tại S&P Dow Jones Indices, cho biết chỉ số toàn cầu thường là nơi các nhà quản lý quỹ chủ động không hoạt động tốt.
Bà nói: ‘Nếu nhìn vào tỷ lệ hiệu suất trong 10 năm hoặc 15 năm, 100% các nhà quản lý mà chúng tôi kiểm tra thực sự đã hoạt động kém hơn chỉ số tham chiếu. Vì vậy, tỷ lệ vượt trội 60% này thực sự rất bất thường và là một trong những mức cao nhất chúng tôi từng thấy ở New Zealand’.
Bà cho biết điều này có thể là do cách các nhà quản lý xử lý các khoản đầu tư vào Mỹ hồi đầu năm nay.
Bà giải thích: ‘Nếu bạn xem xét mọi thứ bằng cùng một loại tiền tệ, là USD, nhiều thị trường phát triển và thị trường mới nổi thực sự đã vượt trội so với đỉnh điểm của thị trường Mỹ, một phần do đồng đô la Mỹ mất giá mạnh… Tôi nghĩ nhiều nhà quản lý quỹ chủ động thực sự đã giảm tỷ trọng đầu tư vào cổ phiếu Mỹ và nếu họ làm vậy, họ sẽ vượt trội so với chỉ số tham chiếu’.
Cổ phiếu New Zealand cũng tụt hậu so với các thị trường khác trong nửa đầu năm nay, một phần do những lo ngại về nền kinh tế địa phương.
Bà Lee cho biết 62% các quỹ cổ phiếu New Zealand được quản lý chủ động đã hoạt động kém hơn chỉ số S&P/NZX50 trong nửa đầu năm.
Bà cho biết có một số ít cổ phiếu ở New Zealand có tỷ trọng lớn trong chỉ số, chẳng hạn như Fisher and Paykel Healthcare, Sân bay Quốc tế Auckland và Infratil.
‘Các nhà quản lý quỹ chủ động sẽ được đánh giá dựa trên chỉ số tham chiếu và cách họ định vị trong ba cổ phiếu này so với chỉ số có thể là một yếu tố rất lớn ở New Zealand… những cổ phiếu này đã hoạt động rất tốt trong những năm qua và… chúng trở thành một tỷ trọng cao trong chỉ số. Nhưng sau đó, trong nửa đầu năm, điều đó đã đảo ngược và mỗi cổ phiếu này đều hoạt động kém hơn chỉ số tham chiếu’.
Bà cho biết bất kỳ nhà quản lý nào có ít tiếp xúc hơn với những cổ phiếu lớn đó sẽ có hiệu suất vượt trội.
NHỮNG ĐIỂM ĐẶC THÙ CHO CÁC NHÀ QUẢN LÝ QUỸ NEW ZEALAND
Ông Chris Douglas, đối tác tại Mapua Wealth, cho biết chính vì lý do đó mà các nhà quản lý quỹ đã gặp khó khăn trong việc vượt trội thị trường trong một thời gian dài.
Ông nói: ‘Trên toàn cầu, nếu bạn không nắm giữ cổ phiếu của Nvidia, Facebook, Google, Amazon, Microsoft, điều đó sẽ có tác động lớn đến hiệu suất của quỹ bạn. Đó chắc chắn là một trở ngại trong 5 đến 10 năm qua đối với bất kỳ nhà quản lý quỹ chủ động nào’.
Ông cho biết có một số điểm đặc thù cần lưu ý ở New Zealand.
Ví dụ, danh mục các quỹ ‘cổ phiếu toàn cầu’ ở đây sẽ bao gồm các khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng toàn cầu. ‘Điều đó bị lẫn vào dữ liệu và cho thấy họ hoạt động kém hiệu quả, nhưng lẽ ra họ phải nằm trong nhóm đối thủ cạnh tranh riêng ở một thị trường khác… đôi khi khi bạn nhìn vào các nhóm đối thủ cạnh tranh rộng hơn mà họ có, trong New Zealand có một số quỹ khác biệt về đặc điểm so với một quỹ cổ phiếu toàn cầu [ở nước ngoài]… đó không phải lúc nào cũng là một so sánh “táo với táo”. Cấu trúc của sản phẩm, những thiên lệch mà nó có thể có, các chỉ số theo dõi có thể không phải lúc nào cũng khớp hoàn hảo với các chỉ số của S&P’.
Bà Lee cho biết có một số lý do khiến các nhà quản lý quỹ chủ động có thể hoạt động kém hiệu quả, nhưng một trong số đó là phí.
Bà nhấn mạnh: ‘Phí thực sự tích lũy theo thời gian và các quỹ thụ động thường có chi phí tốt hơn nhiều so với các quỹ chủ động’.
CHI PHÍ LÀ RÀO CẢN LỚN NHẤT
Ông Gertjan Verdickt, giảng viên tài chính tại Đại học Auckland, cho biết việc các nhà quản lý quỹ chủ động liên tục vượt trội so với một chỉ số thụ động là ‘cực kỳ thách thức’.
Ông giải thích: ‘Đầu tiên và quan trọng nhất là chi phí. Nghiên cứu liên tục cho thấy rằng quỹ chủ động trung bình kiếm được lợi nhuận điều chỉnh rủi ro âm khi tất cả các khoản phí, chi phí giao dịch và các chi phí khác được tính đến. Những chi phí này tạo ra một rào cản cao mà các nhà quản lý phải vượt qua để hòa vốn với một quỹ chỉ số chi phí thấp. Thứ hai, thị trường của chúng ta khá hiệu quả. Điều này có nghĩa là việc tìm kiếm các cổ phiếu thực sự bị định giá sai là một nhiệm vụ đầy thách thức, và làm được điều đó một cách nhất quán trong thời gian dài thậm chí còn khó khăn hơn. Các bảng điểm ngành từ khắp nơi trên thế giới xác nhận điều này, cho thấy tỷ lệ các quỹ chủ động hoạt động kém hơn các chỉ số tham chiếu của họ gần như luôn tăng lên trong các khoảng thời gian dài hơn, chẳng hạn như 10 hoặc 15 năm. Vượt trội là ngoại lệ, không phải quy tắc’.
Verdickt cho biết các nhà quản lý sẽ chạy theo lợi nhuận.
Ông nói: ‘Nếu bạn là một nhà quản lý có một năm tồi tệ, bạn có thể sẽ sao chép chiến lược của một người chiến thắng – khiến chiến lược đó trở nên lỗi thời. Tương tự, các nhà đầu tư cũng chạy theo lợi nhuận: nếu bạn đầu tư vào một khoản thua lỗ, bạn sẽ chuyển sang một khoản thắng lợi. Tuy nhiên, không phải chiến lược nào cũng có thể xử lý được một lượng vốn đáng kể đổ vào’.
Ông cho biết những yếu tố dự báo thành công mạnh mẽ nhất trong tương lai không phải là các cổ phiếu cụ thể mà một quỹ nắm giữ, mà là các đặc điểm của chính quỹ đó.
Ông chỉ ra: ‘Hai yếu tố nổi bật là động lượng của quỹ (một quỹ hoạt động tốt có xu hướng tiếp tục hoạt động tốt) và dòng tiền vào quỹ (các nhà quản lý giỏi có xu hướng thu hút đầu tư mới)’.
Ông cho biết các quỹ hoạt động tốt nhất thường là những quỹ ‘quá nhỏ’ so với khả năng của nhà quản lý.
‘Điều này ngụ ý rằng các nhà quản lý hàng đầu đang khai thác sự kém hiệu quả của thị trường trước khi thị trường rộng lớn hơn nhận ra và đổ quá nhiều vốn vào quỹ khiến chiến lược bị pha loãng. Một niềm tin phổ biến là lợi ích chính của quản lý chủ động là khả năng bảo vệ vốn trong thời kỳ suy thoái… Tuy nhiên, quan điểm của tôi là bằng chứng về điều này còn lẫn lộn: Phân tích gần đây đã kiểm tra các chiến lược hoạt động hàng đầu qua các chu kỳ thị trường khác nhau cho thấy, mặc dù chúng hoạt động tốt hơn một chút trong thời kỳ suy thoái, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy rằng trong khi một số nhà quản lý cá nhân có thể thành công vượt qua một đợt suy thoái, thì đây không phải là một đặc điểm được đảm bảo của toàn bộ hoạt động quản lý chủ động’.
Ông cũng cho biết mọi người nên nhớ rằng dữ liệu hiệu suất thường bị thổi phồng do thiên lệch sống sót (survivorship bias).
‘Một tỷ lệ lớn các quỹ – trong một số trường hợp lên đến một nửa trong vòng 15 năm – bị sáp nhập hoặc thanh lý. Đây thường là những quỹ hoạt động kém nhất, và khi chúng bị loại bỏ khỏi dữ liệu, hiệu suất trung bình của các quỹ còn lại có vẻ tốt hơn nhiều so với thực tế. Bất kỳ phân tích hợp lý nào cũng phải tính đến điều này’.
Theo rnz.co.nz