Nghiên cứu dài hạn hé lộ: Hầu hết trẻ sinh non vẫn sống khỏe mạnh, thành công khi trưởng thành

A series of photographs showing Rosie Peck as a baby. The top left image shows her at eight days old, next to a 7cm tall teddy.

Rosie Peck từng bé nhỏ đến mức có thể nằm gọn trong lòng bàn tay cha và suýt không qua khỏi những tháng đầu đời. Thế nhưng, giờ đây cô là một giáo viên, một người mẹ và là thành viên của một nghiên cứu đột phá về cuộc sống của những em bé sinh non cực nhỏ.

Chào đời với cân nặng chỉ 500 gram, cô là một trong hai em bé nhỏ nhất trong nghiên cứu của Đại học Otago, theo dõi cuộc sống của những trẻ sinh non nhẹ cân chào đời vào năm 1986.

Nghiên cứu này phát hiện rằng, mặc dù trẻ sinh non có thể đối mặt với nhiều khó khăn về sức khỏe, nhưng hầu hết đều phát triển tốt khi trưởng thành.

Peck cho rằng có một điều gì đó đặc biệt đã diễn ra – bên cạnh may mắn và chuyên môn y tế.

“Tôi chỉ nghĩ rằng những đứa trẻ như vậy có một động lực và sự quyết tâm để vượt qua mọi nghịch cảnh, để chiến thắng số phận và thực sự tiếp tục sống khi đối mặt với những khó khăn lớn ngay từ đầu đời,” cô chia sẻ.

Cha mẹ cô đã sốc khi cô chào đời chỉ ở tuần thứ 26. Cô bé dài bằng một cây bút bi.

Có thời điểm cô bé suýt chết. Cô kể, khi đội ngũ y tế đang chật vật đặt ống thở, bác sĩ nhi khoa sơ sinh Brian Darlow đã xuất hiện và thực hiện thành công.

Hiện là giáo sư danh dự, ông đã đứng đầu nghiên cứu Trẻ sơ sinh nhẹ cân của New Zealand, công bố đánh giá mới nhất trên Tạp chí Y học New Zealand vào thứ Sáu.

Khi 21 tuổi, Peck đã viết thư cho ông để cho biết cô là một trong những em bé của nghiên cứu và để cảm ơn ông vì tất cả những gì ông đã làm.

Cô cho biết, việc tham gia nghiên cứu đã giúp cô học hỏi được rất nhiều điều.

“Tôi đã có một sự trân trọng sâu sắc hơn về cuộc chiến mà chúng tôi, những người bé nhỏ, đã phải đối mặt và tầm quan trọng của những người xung quanh chúng tôi, những người có kiến thức để giúp chúng tôi phát triển mạnh mẽ,” cô nói.

Tất cả các em bé trong nghiên cứu đều sinh non từ 8 đến 16 tuần và nặng từ 1,5 kilôgam (3,3 pound) trở xuống.

Nghiên cứu đã theo dõi định kỳ các em bé này và lần kiểm tra thể chất gần nhất là vào năm 2016, khi họ khoảng 28 tuổi.

Rosie Peck and her family.
Rosie Peck and her family. – Photo: Supplied

Darlow và nhóm của ông đã xem xét và công bố dữ liệu đó khi họ chuẩn bị gặp lại những “em bé” này.

Nghiên cứu phát hiện rằng, phần lớn những người tham gia đang sống một cuộc sống khỏe mạnh, có ích, “tương tự như những người bạn cùng tuổi sinh đủ tháng của họ”.

“Mặc dù có một số người mắc các khuyết tật khá nặng, nhưng họ chỉ là một thiểu số nhỏ và đại đa số nhóm đối tượng của chúng tôi đều đang sống rất tốt. Họ đang sống một cuộc sống khỏe mạnh, bình thường, giống như bất kỳ ai khác,” Darlow cho biết.

“Những gì chúng tôi đo lường, về mặt y tế, mọi thứ thực sự nằm trong phạm vi bình thường theo độ tuổi, nhưng nếu bạn lấy mức trung bình cho nhóm, nó hơi thấp hơn mức trung bình của nhóm đối chứng sinh đủ tháng.”

Ông cho biết, có một số tình trạng mà trẻ sinh non dễ mắc phải hơn, và đó là lý do tại sao, ngay cả khi trưởng thành, các bác sĩ nên hỏi liệu bệnh nhân của họ có sinh non đáng kể hay không.

“Ví dụ, một người 40 tuổi đến khám vì bệnh phổi, điều thực sự quan trọng là bác sĩ đa khoa phải biết rằng người này sinh non rất sớm hoặc có cân nặng khi sinh rất thấp, bởi vì ngay lập tức đó là một dấu hiệu cảnh báo… họ có thể có vấn đề gì đó ở phổi,” ông nói.

Darlow cho biết có những dấu hiệu vào năm 2016 cho thấy nhóm nghiên cứu đang lão hóa sinh lý nhanh hơn nhóm đối chứng, với các chỉ số như chức năng phổi và huyết áp. Đây sẽ là một phần của công việc tiếp theo để xem xét sự theo dõi đó.

Khi những em bé này chào đời vào những năm 1980, 20% không sống sót đủ lâu để về nhà. Con số đó đã giảm xuống khoảng 10% và các em bé có thể sống sót khi sinh non hơn, ông nói.

Rosie Peck cho biết cô đã đối mặt với một số thách thức về sức khỏe khi lớn lên và đã trải qua các ca phẫu thuật khi còn nhỏ, nhưng phần lớn cô vẫn khỏe mạnh, đi học và vào đại học.

Cháu gái của cô cũng sinh non và cô thấy ở cháu mình tinh thần chiến đấu tương tự.

Cô nói, thật tốt khi biết rằng nghiên cứu này sẽ giúp ích cho những người khác giống như cô trong tương lai.

Theo rnz.co.nz

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *