Nhà cải cách chính trị và xã hội Kate Sheppard nổi tiếng vì đã dẫn dắt chiến dịch giúp phụ nữ New Zealand trở thành những người đầu tiên trên thế giới giành được quyền bầu cử vào ngày 19 tháng 9 năm 1893. Thông thường, chúng ta không nghĩ bà là một đầu bếp, như Katie Pickles giải thích. Tuy nhiên, dù rất yêu thích đọc và viết, bà vẫn coi công việc nội trợ của phụ nữ là thiết yếu. Bà cũng quan tâm đến khả năng xây dựng bếp và tiệm giặt ủi công cộng để tăng hiệu quả.
Tôi đang nghiên cứu và viết một cuốn tiểu sử mới về Sheppard. Trong quá trình xây dựng một cái nhìn toàn diện hơn về bà, tôi đã phát hiện ra một công thức nấu ăn do bà đóng góp cho một cuốn sách nhỏ có tựa đề Everybody’s Cookery Book of Tested Recipes (Sách Dạy Nấu Ăn Với Các Công Thức Đã Được Kiểm Chứng Của Mọi Người), hay còn gọi là Trinity Congregational Cookbook (Sách Dạy Nấu Ăn của Giáo đoàn Trinity).

Cuốn Trinity Congregational Cookbook, xuất bản năm 1928, được tập hợp bởi “Các quý bà của Giáo đoàn Trinity Christchurch, New Zealand” nhằm mục đích gây quỹ. Công thức của Sheppard là món kem Tây Ban Nha – mà ngày nay tôi gọi là “bánh custard sang trọng”.
Tôi tìm thấy công thức này trong các hồ sơ liên quan đến Giáo đoàn Trinity được lưu giữ tại Tūranga, thư viện công cộng của Christchurch. Tôi đang tìm kiếm bằng chứng về sự tham gia của Kate trong nhà thờ. Cùng với các nguồn lịch sử truyền thống hơn, như sổ biên bản và lịch sử chính thức của nhà thờ, khám phá nhỏ này là một lời nhắc nhở về tầm quan trọng của lịch sử ẩm thực. Những cuốn sách dạy nấu ăn gây quỹ như thế này mang đến cho chúng ta những góc nhìn mới mẻ về lịch sử xã hội và văn hóa của mình.
Nhà thờ và Chính trị
Sheppard đã tái hôn được ba năm và 80 tuổi khi bà đóng góp công thức kem Tây Ban Nha dưới tên bà K. W. Lovell-Smith. Sau khi sống ly thân với người chồng đầu tiên Walter (người qua đời ở Anh năm 1915), vào năm 1905, Kate đã chuyển đến sống cùng William và Jennie Lovell-Smith cùng gia đình đông đúc của họ. Năm 1920, họ chuyển đến Midway, một ngôi nhà lớn trên đường Riccarton (Kate đã trả phần của mình). Jennie qua đời ngay sau lễ kỷ niệm đám cưới vàng của nhà Lovell-Smith và một năm sau đó, vào năm 1925, sau “một tình bạn trọn đời dựa trên những sở thích và sự đồng cảm chung”, Kate và William kết hôn.
Đến giai đoạn này, Kate đã bắt đầu tham dự Nhà thờ Giám lý Upper Riccarton cùng các thành viên khác trong gia đình, cho thấy có thể bà đã trở thành một tín đồ Giám lý. Nhà thờ đó gần nhà hơn rất nhiều, và bà cũng tham gia vào các hoạt động gây quỹ của Giáo hội Giám lý, tổ chức các buổi tiệc ngoài vườn tại Midway.
Nhà thờ Giáo đoàn Trinity cũ giờ đã trở thành một quán rượu.
Tuy nhiên, trong khi gia đình Lovell-Smith là những tín đồ Giám lý kiên định, có tên trong danh sách nhà thờ, việc Kate tham gia vào cuốn sách dạy nấu ăn cho thấy bà vẫn là một tín đồ của Giáo đoàn (cùng với các cháu gái của bà, những người cũng có công thức trong sách). Trên thực tế, cuốn sách dạy nấu ăn là bằng chứng về mối liên hệ bền chặt của Sheppard với Giáo đoàn Trinity, nơi bà lần đầu tiên tham dự khi đến Christchurch từ Anh vào năm 1869. Và chính trong những bức tường nhà thờ đó, vào những năm 1870 và 1880, bà đã trở thành một nhà nữ quyền thuộc địa thực thụ.
Như thường lệ đối với nhiều người trong phong trào phụ nữ thời bấy giờ, công việc nhà thờ đóng vai trò là nơi học hỏi và ươm mầm cho các hoạt động chính trị sau này. Trong trường hợp của Sheppard, bà là thư ký của Ủy ban Hiệp hội Phụ nữ. Bà đã gây quỹ thành công cho nhà thờ và là một “nữ khách thăm” – một dạng nhân viên xã hội hoặc giáo dân, giúp đỡ các thành viên trong giáo đoàn.
Sheppard cũng dạy trường Chủ nhật và lớp Kinh Thánh cho phụ nữ trẻ, nuôi dưỡng một thế hệ “phụ nữ mới”. Nhà văn và nhà nữ quyền Jessie Mackay sau này nhớ lại Sheppard là “một phu nhân trẻ duyên dáng và xinh đẹp” khi dẫn dắt lớp Kinh Thánh của mình. Chính trong các hồ sơ của nhà thờ mà giọng nói rõ ràng, có năng lực và ngày càng tự tin của Sheppard đã xuất hiện.
Một khoảnh khắc mang tính chất xúc tác trong lịch sử quyền bầu cử của phụ nữ đã xảy ra vào ngày 14 tháng 5 năm 1885, tại Nhà thờ Trinity, khi Sheppard nghe nhà truyền giáo Mary Clement Leavitt của Hiệp hội Phụ nữ Cơ đốc Giáo chống rượu (WCTU) Hoa Kỳ phát biểu tại một trong nhiều cuộc họp của bà khắp New Zealand. Điều này dẫn đến việc thành lập các chi nhánh WCTU quốc gia và Sheppard trở thành người đứng đầu bộ phận quyền bầu cử của tổ chức. Từ đó cho đến khi thành công vào năm 1893, Kate đã dẫn dắt chiến dịch đòi quyền bầu cử cho phụ nữ, điều phối bản kiến nghị lớn nhất từng được tập hợp ở New Zealand.
Nhà cải cách chính trị và xã hội Kate Sheppard.
Kem Tây Ban Nha và Tiếng Esperanto
Vậy còn bản thân công thức thì sao? Nhà sử học ẩm thực New Zealand Duncan Galletly đã nghiên cứu sự phát triển phức tạp của món tráng miệng này, từ nguồn gốc kem châu Âu mơ hồ hàng thế kỷ cho đến vị trí của nó như một loại bánh custard đông bằng gelatin. Vào thời điểm đó, món này đang trở nên phổ biến ở New Zealand thuộc địa. Dù không ghi công Sheppard, Galletly vẫn ghi lại công thức này trong nghiên cứu của mình, lưu ý rằng nó thực chất giống hệt một công thức trong ấn bản đầu tiên của cuốn sách Colonial Everyday Cookery năm 1901. Như thường thấy với các sách dạy nấu ăn gây quỹ, Sheppard dường như đã sao chép trực tiếp công thức này nhiều năm sau đó.
Sheppard thích một chút xa hoa và phục vụ những món ăn tráng miệng béo ngậy. Một người cháu gái đã kể lại việc đến thăm “ngôi nhà đáng yêu” của bà vào những năm 1920 và “ngồi trong phòng khách sang trọng, uống trà chiều, sợ hãi làm rơi tách hoặc làm đổ bánh kem – dì Kate thật thanh lịch, mặc những bộ váy và trang sức lộng lẫy, và di chuyển như một nữ hoàng. Bà thật đẹp.”
Sheppard cũng quan tâm đến chế độ ăn chay và thực phẩm toàn phần, mặc dù sự hiện diện của gelatin trong công thức của bà cho thấy bà không phải là người ăn chay trường nghiêm ngặt. Điều đặc biệt thú vị là bà theo đuổi mối liên hệ giữa một tâm trí khỏe mạnh và một cơ thể khỏe mạnh, và điều bà nghi ngờ là “mối liên hệ chặt chẽ giữa việc ăn thịt và cơn thèm rượu“.
Năm 1901, bà đạp xe đến Sanitarium Health Foods để phỏng vấn Tiến sĩ Florence Keller, một bác sĩ người Mỹ, tín đồ Cơ Đốc Phục Lâm, nhà nữ quyền, người ủng hộ cấm rượu và người ăn chay thuần từ sớm. Sheppard rất ấn tượng khi Keller chủ trương một chế độ ăn uống lành mạnh, dựa trên thực vật, giàu ngũ cốc nguyên hạt, trái cây và rau củ. Và bà bị cuốn hút bởi ý kiến của Keller rằng: “Thịt là một dạng thực phẩm kích thích cao, và tạo ra ham muốn đối với các loại chất kích thích khác nhau. Một chế độ ăn nhiều thịt dễ dẫn đến việc yêu thích gia vị; cũng như các dạng đồ uống có cồn khác nhau.”
Keller cũng gây ấn tượng với Sheppard bằng niềm tin của bà rằng thuốc lá “rất có hại” và thuộc cùng loại với “thói quen nghiện rượu và morphine”.
Cuốn Trinity Congregational Cookbook.
Mặc dù có những ý tưởng khá nghiêm ngặt này, tôi vẫn muốn nghĩ rằng Sheppard đã chọn món kem Tây Ban Nha như một sự gợi nhắc mang tính quốc tế hóa của thập niên 1920. Bà ủng hộ tiếng Esperanto, mô hình ngôn ngữ được phát minh vào năm 1887 để phá vỡ rào cản ngôn ngữ, trong đó tiếng Tây Ban Nha có ảnh hưởng đáng kể. Như Sheppard đã viết: “Nếu các quốc gia hiểu nhau hơn – họ sẽ không sẵn sàng gây chiến.”
Trớ trêu thay, nhà thờ chống rượu mà Sheppard yêu quý và kiên định, nơi lịch sử đã được tạo nên, giờ đây lại là một quán rượu nổi tiếng ở Christchurch. Với tên gọi The Church (Nhà thờ), nơi đây hiện là địa điểm của nhiều hoạt động ăn uống, nhậu nhẹt và vui chơi. Các giáo đoàn trong quá khứ hẳn không thể dự đoán được điều này ngay cả trong những cơn ác mộng tồi tệ nhất của họ và có lẽ đang trăn trở trong mồ.
Katie Pickles là Giáo sư Lịch sử tại Đại học Canterbury.
Bài viết này được tái bản từ The Conversation theo giấy phép Creative Commons.
Theo 1news.co.nz