Dấu hiệu sa sút trí tuệ sớm bị bỏ qua: Gia đình lơ là, số ca mắc dự kiến tăng vọt

Young doctor giving helping hands for elderly woman

Nhân Ngày Alzheimer Thế giới vào Chủ Nhật, các chuyên gia y tế tại New Zealand cảnh báo rằng sự kỳ thị xung quanh bệnh sa sút trí tuệ đang khiến nhiều gia đình ngần ngại tìm kiếm sự giúp đỡ.

Theo số liệu mới nhất từ Tổ chức Alzheimers New Zealand, ước tính có khoảng 83.000 người New Zealand hiện đang sống chung với bệnh sa sút trí tuệ, mặc dù các chuyên gia tin rằng con số thực tế còn cao hơn.

Đồng thời, sự già hóa dân số nhanh chóng trong các cộng đồng Māori, Thái Bình Dương và châu Á được dự báo sẽ đẩy nhanh tốc độ gia tăng các ca mắc sa sút trí tuệ trên toàn quốc.

Bà Catherine Hall, Giám đốc điều hành của Alzheimers New Zealand, cho biết ước tính này dựa trên tỷ lệ mắc sa sút trí tuệ quốc tế áp dụng cho dân số nước này.

Bà cho rằng con số thực tế có thể cao hơn, bởi vì một số yếu tố rủi ro – bao gồm bệnh tim mạch và các suy giảm giác quan như mất thính giác và thị lực – phổ biến hơn ở New Zealand so với mức trung bình toàn cầu.

Bà nói: “Chúng tôi có tỷ lệ mắc bệnh tim mạch khá cao ở New Zealand, đặc biệt là trong các cộng đồng Māori, Thái Bình Dương và châu Á. Rất có thể con số thực tế cao hơn, nhưng chúng tôi chưa có câu trả lời chính xác cho điều đó.”

Catherine Hall, chief executive of Alzheimers New Zealand
Catherine Hall, chief executive of Alzheimers New Zealand – Photo: RNZ / Rebekah
Parsons-King

Dự án IDEA (Tác động của Sa sút trí tuệ và Bình đẳng ở Aotearoa) – một nghiên cứu kéo dài 5 năm về bệnh sa sút trí tuệ tại New Zealand – đã hoàn thành năm nghiên cứu đầu tiên.

Nghiên cứu nhằm xác định số người đang sống chung với bệnh sa sút trí tuệ (mate wareware theo tiếng Māori) trong các nhóm dân tộc khác nhau và những hỗ trợ mà cộng đồng cần để chăm sóc người thân lớn tuổi.

Năm mươi điều tra viên, được trang bị công cụ chẩn đoán sa sút trí tuệ đã được thiết lập, đã gõ cửa hơn 20.000 hộ gia đình ở Christchurch và Auckland. Hơn 600 người Trung Quốc, Ấn Độ và châu Âu từ 65 tuổi trở lên đã đồng ý tham gia phỏng vấn.

Giáo sư Ngaire Kerse, trưởng nhóm nghiên cứu, đồng giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Lão hóa Đồng sáng tạo của Đại học Auckland và là chủ tịch Joyce Cook về Sống khỏe, cho biết từ một phần ba đến một nửa số người trong mỗi nhóm không hề biết mình có vấn đề về trí nhớ.

Bà cho rằng niềm tin phổ biến rằng sa sút trí tuệ chỉ đơn thuần là một phần bình thường của quá trình lão hóa đã dẫn đến tình trạng chẩn đoán dưới mức.

“Sa sút trí tuệ không phải là một phần của quá trình lão hóa bình thường, đó là sự kết hợp của các bệnh khác nhau,” bà Kerse nhấn mạnh. “Alzheimer và đột quỵ là những nguyên nhân phổ biến nhất, tiếp theo là các loại ít phổ biến hơn như sa sút trí tuệ thể Lewy.”

Bà cho biết thêm, sự kỳ thị trong gia đình, cộng đồng và xã hội nói chung, cùng với việc thiếu các dịch vụ phù hợp về văn hóa và ngôn ngữ cho các nhóm như cộng đồng Ấn Độ và Trung Quốc, cũng đã khiến mọi người không tìm kiếm sự giúp đỡ.

Professor Ngaire Kerse, co-director of the University of Auckland's Centre for CoCreated Ageing Research and the Joyce Cook chair in Ageing Well
Ngaire Kerse, co-director of the University of Auckland’s Centre for CoCreated
Ageing Research and the Joyce Cook chair in Ageing Well – Photo: Supplied

Ông Felix Lin, quản lý cộng đồng dân tộc và hoạch định chiến lược tại Age Concern Auckland, cũng đồng tình với quan điểm này.

Ông cho biết nhiều rào cản như khó khăn về ngôn ngữ và giao tiếp, sự khác biệt văn hóa trong việc hiểu về sa sút trí tuệ và sự phức tạp khi điều hướng hệ thống y tế New Zealand đã làm chậm quá trình chẩn đoán và ngăn cản các gia đình trong cộng đồng dân tộc tiếp cận sự giúp đỡ kịp thời.

Ông Lin cho biết, tổ chức này đã lên kế hoạch tổ chức một hội nghị chuyên đề về sa sút trí tuệ cho cộng đồng người Hoa trong tháng này, đây là một phần trong chiến lược nhằm giúp các gia đình người Hoa cảm thấy được hỗ trợ và trang bị tốt hơn để đối phó với bệnh sa sút trí tuệ.

Ông nói: “Một số người chăm sóc gốc Hoa hỏi chúng tôi liệu họ có đang làm đúng cách ở nhà không và lo lắng bị hiểu lầm là ngược đãi người thân của mình.”

“Các điều phối viên dịch vụ thăm khám của chúng tôi cũng báo cáo những trường hợp người lớn tuổi có các triệu chứng sa sút trí tuệ sớm, nhưng gia đình lại không nhận thức được đó là dấu hiệu của bệnh,” ông chia sẻ.

Ông nhấn mạnh: “Đó là lý do tại sao việc nâng cao nhận thức và cung cấp các nguồn lực phù hợp về văn hóa thông qua nỗ lực hợp tác lại vô cùng quan trọng.”

“Khi các gia đình cảm thấy tự tin và được hỗ trợ, điều đó sẽ giảm bớt sự kỳ thị, tăng cường khả năng phục hồi và cuối cùng, mang lại kết quả tốt hơn cho người lớn tuổi.”

Age Concern Auckland, Felix Lin
Felix Lin, ethnic communities and strategic planning manager at Age Concern
Auckland – Photo: RNZ / Yiting Lin

Theo Điều tra dân số năm 2023 của Stats NZ, có 34.308 người gốc Hoa và 18.720 người gốc Ấn Độ từ 65 tuổi trở lên.

Dân số châu Á trong nhóm tuổi này được dự báo sẽ tăng từ 72.900 người vào năm 2023 lên 299.800 người vào năm 2048 – tăng gấp bốn lần.

Nhóm này được dự báo sẽ bao gồm 120.700 người gốc Hoa và 80.500 người gốc Ấn Độ.

Bà Hall cho biết, dân số đang già hóa nhanh chóng của đất nước dự kiến sẽ thúc đẩy sự gia tăng mạnh mẽ về tỷ lệ mắc bệnh sa sút trí tuệ.

Báo cáo Tác động Kinh tế của Sa sút trí tuệ năm 2020 dự báo rằng số người sống chung với bệnh sa sút trí tuệ trên toàn quốc sẽ tăng hơn gấp đôi vào năm 2050, đạt 167.483 người – chiếm 2,7% tổng dân số và 10,8% những người từ 65 tuổi trở lên.

Các cộng đồng Māori, Thái Bình Dương và châu Á được dự kiến sẽ chiếm một tỷ lệ ngày càng tăng trong tổng số ca mắc trong tương lai.

Từ năm 2020 đến 2040, sự gia tăng sa sút trí tuệ trong các nhóm này được dự báo sẽ gấp đôi tỷ lệ ghi nhận ở người châu Âu.

Số người châu Âu sống chung với bệnh sa sút trí tuệ được dự báo sẽ tăng gần gấp đôi, từ 60.500 người vào năm 2020 lên 106.500 người vào năm 2050.

Trong các cộng đồng Māori, Thái Bình Dương và châu Á, con số này dự kiến sẽ tăng gần gấp ba trong cùng kỳ – từ 4.300 lên 12.030 đối với người Māori, từ 1.930 lên 5.450 đối với người Thái Bình Dương và từ 4.800 lên 17.990 đối với người châu Á.

rear view of a senior man sitting in a wheelchair looking up
Photo: 123RF

Dấu hiệu cảnh báo sa sút trí tuệ

Khi những con số này tăng lên, các chuyên gia cho rằng điều quan trọng là phải hiểu rõ sa sút trí tuệ là gì và không phải là gì.

Nhiều tình trạng, bao gồm đột quỵ, trầm cảm và nhiễm trùng, cũng như quá trình lão hóa bình thường, đều có thể gây ra các triệu chứng giống sa sút trí tuệ.

Bà Hall cho biết, sa sút trí tuệ là một thuật ngữ chung chỉ một loạt các tình trạng ảnh hưởng đến cách hoạt động của não bộ.

Những căn bệnh này làm suy giảm trí nhớ, khả năng phán đoán và giao tiếp, đồng thời dần dần làm xói mòn khả năng tự chăm sóc bản thân và giữ an toàn của một người.

“Tất cả chúng ta đôi khi đều làm mất chìa khóa hoặc quên tên,” bà nói. “Đó là điều bình thường và xảy ra thường xuyên hơn khi chúng ta già đi.”

“Nhưng mất trí nhớ ảnh hưởng đến cách chúng ta sống,” bà nói. “Chúng ta quên những sự kiện gần đây – đó là một dấu hiệu cần phải chú ý.”

no caption
Photo: AFP

Tổ chức Alzheimers New Zealand khuyên các gia đình nên chú ý một số dấu hiệu cảnh báo cụ thể sau:

  • Mất trí nhớ gây ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày
  • Khó khăn khi thực hiện các công việc quen thuộc
  • Khó khăn khi bắt đầu hoặc theo dõi một cuộc trò chuyện
  • Mất phương hướng về thời gian hoặc địa điểm
  • Khả năng phán đoán kém
  • Lơ là vệ sinh cá nhân
  • Gặp vấn đề với tư duy trừu tượng
  • Để nhầm đồ vật
  • Thay đổi tâm trạng, hành vi, tính cách hoặc động lực, bao gồm việc mất hứng thú với các hoạt động từng yêu thích.

Bà Hall cho biết, điều quan trọng là phải đi khám bác sĩ đa khoa hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu nếu mọi người lo ngại rằng bản thân hoặc người quen có thể mắc bệnh sa sút trí tuệ.

Bà nói rằng việc duy trì chế độ ăn uống lành mạnh, tập thể dục thường xuyên và duy trì kết nối xã hội với bạn bè và gia đình là rất quan trọng để giúp giữ cho não bộ hoạt động tích cực và giảm nguy cơ mắc bệnh.

Bà Kerse nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chẩn đoán sớm, điều này cho phép người bệnh chuẩn bị cho tương lai và thực hiện các biện pháp pháp lý như ủy quyền lâu dài trước khi họ mất khả năng nhận thức.

“Khi có chẩn đoán, chúng ta có thể làm rất nhiều điều để cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh và làm sáng tỏ những gì đang xảy ra với người thân yêu,” bà nói.

Theo rnz.co.nz

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *