Tại cuộc thi hùng biện Ngā ManuKōrero dành cho học sinh trung học toàn quốc năm nay, đánh dấu kỷ niệm 60 năm thành lập, các thí sinh trẻ tuổi đã chia sẻ về hành trình vượt qua nghịch cảnh. Trong số những người chiến thắng có cả một nhà vô địch bảo vệ thành công danh hiệu và một ca sĩ từng đoạt giải thưởng. Học sinh từ khắp mọi miền đất nước đã tề tựu tại Sân vận động Jubilee ở Whanganui để lắng nghe những gì bạn bè mình nói về các chủ đề như tikanga (phong tục), bản sắc, khát vọng và hoài bão.
Pou Ariki Hemara-Daniels đã bảo vệ thành công danh hiệu hùng biện quốc gia của mình tại cuộc thi Ngā Manu Kōrero năm nay. Nhà hùng biện tiếng Anh hạng thiếu niên Sir Turi Carroll đến từ trường Te Kura Kaupapa Māori o Te Rangi Āniwaniwa ở Kaitaia đã sử dụng sự hài hước “sắc sảo” và màn trình diễn đầy năng lượng để mang đến một bài phát biểu đáng nhớ, mô tả về ‘Hawaiki’ của mình – một cách hiểu nôm na là nơi chốn hoặc trạng thái sống mà cậu khao khát.
Khi mô tả tình trạng chung của cuộc sống ở vùng Viễn Bắc, cậu đã dùng những từ ngữ “khắc nghiệt” về khu vực nghèo khó này để minh họa cho thực tế cuộc sống không mấy lý tưởng.
“Chúng ta gần Hawaiki nhất, nhưng lại xa Hawaiki hou nhất,” cậu nói, đề cập đến quê hương cổ xưa của người Māori và so sánh nó với một tương lai tươi sáng hơn của một ‘Hawaiki mới’ – một khẩu hiệu được phong trào Toitū Te Tiriti phổ biến.
Đó là điểm nhấn u ám duy nhất trong một bài phát biểu tràn đầy hy vọng và khát vọng, điều này càng làm cho bài diễn thuyết thêm phần mạnh mẽ và ấn tượng.
Năm ngoái, bài phát biểu chiến thắng của Pou Ariki có chủ đề ‘Chúng ta cần nhiều người điều hành hơn’, nhằm tôn vinh những hình mẫu trong cuộc đời cậu và nhắc đến một bài hát hip hop kinh điển, Regulate của Warren G.
Atareta Milne đến từ Te Kura o Te Koutu ở Rotorua đã có một bài phát biểu đầy cảm xúc về giá trị của việc lớn lên với te reo Māori (tiếng Māori) là ngôn ngữ mẹ đẻ trong một môi trường hoàn toàn đắm chìm tại nhà.
Là mokopuna (cháu) lớn nhất, cô nhớ lại mình từng là “kini piiki” (chuột bạch) cho các chiến lược và sáng kiến phục hồi ngôn ngữ của cha mẹ trong whānau (gia đình) của họ.

Bài phát biểu của cô là một câu chuyện cá nhân về những thách thức mà cha mẹ cô phải đối mặt, bao gồm cả phản ứng dữ dội từ một bài báo trên New Zealand Herald mà họ xuất hiện trong khuôn khổ Tuần lễ Te Reo Māori năm 2013. Bài báo đã kể chi tiết về quyết định của cha mẹ cô khi nuôi dạy Atareta – lúc đó còn là một đứa trẻ mới biết đi – hoàn toàn bằng tiếng te reo.
“Ko ngā tā kupu ā ētahi he kaikiri, he whakaweti, he whakahawea i a mātou,” cô nói. (Một số phản hồi là phân biệt chủng tộc, đe dọa và kỳ thị chúng tôi.)
Cô kể rằng những người chỉ trích đã nói với cha mẹ cô rằng cô sẽ không bao giờ thành công hay kiếm được việc làm. Điều tồi tệ nhất là họ mô tả việc cha mẹ cô làm như một hành vi lạm dụng trẻ em.
Mười hai năm sau, Atareta có thể thêm danh hiệu nhà hùng biện tiếng Māori hạng thiếu niên Te Rāwhiti Ihaka vào danh sách thành tích của mình, vốn đã bao gồm việc là một ca sĩ từng đoạt giải thưởng cùng với người em họ Te Haakura Ihimaera-Manley của Te Nūtube.
Scott Picard từ trường Onslow College ở Wellington đã có một bài phát biểu mạnh mẽ, mang phong cách thơ nói (spoken-word), về việc lớn lên là người Māori – “chưa bao giờ được dạy để là chính mình, chỉ được dạy để là họ” – giúp cậu giành chiến thắng ở hạng mục tiếng Anh cấp cao Korimako.
Cậu đã xây dựng bài phát biểu của mình xoay quanh phép loại suy về việc học và được kiểm tra ở trường, khéo léo so sánh nó với những thách thức mà cậu phải đối mặt khi cố gắng học hỏi và duy trì bản sắc Māori của mình trước những áp lực bên ngoài.

“Họ bảo chúng tôi hãy vượt qua đi nhưng hãy nói cho tôi biết phần nào tôi nên vượt qua trước?” cậu hỏi tại một thời điểm trước khi đọc một danh sách dài những lời phàn nàn chống lại người Māori.
Cậu đưa ra những số liệu thống kê đáng báo động về tỷ lệ tự tử của người Māori là 30 trên 100.000 người – cao gấp ba lần so với người không phải Māori, cậu cho biết.
“Gấp ba lần nỗi đau buồn, gấp ba lần nỗi đau, gấp ba lần số mạng sống bị đánh cắp, chứ không phải mất đi. Và họ vẫn hỏi, ‘Có gì sai với họ?’, trong khi câu hỏi thực sự phải là ‘Điều gì đang xảy ra với chúng ta?’”
Đó là một bài phát biểu đầy thách thức, nhưng đó chính là điều cậu muốn, cậu nói. Cậu không ở đây để “đóng vai nạn nhân” hay trở thành “một con số thống kê” tiếp theo, cậu nói, cậu ở đây để trở thành “khởi đầu tiếp theo cho một điều gì đó tốt đẹp hơn”.
Te Kahurangi Teinakore-Huaki từ Te Wharekura o Kirikiriroa đã giải quyết một cuộc tranh luận đang diễn ra trong te ao Māori (thế giới Māori) về vai trò giới tính. Sử dụng poi (một loại bóng có dây) như một cách để làm rõ quan điểm của mình, cô đã đi sâu vào các tikanga (phong tục) liên quan đến poi, whaikōrero (hùng biện), karanga (kêu gọi), và karakia (cầu nguyện).
Cô giải thích các khái niệm phức tạp và trình bày lập luận của mình theo một cách gợi nhớ đến một bài nghiên cứu tikanga cấp độ 300 của đại học.
Ví dụ, cô nói về nguồn gốc của karanga (lời kêu gọi) bắt nguồn từ câu chuyện truyền thống về các nữ thần Hine-ahu-one, Hine-tītama, và Hine-nui-te-po – lần lượt được mô tả là người phụ nữ đầu tiên được Tāne tạo ra, người phụ nữ đầu tiên sinh ra từ tử cung, và nữ thần của cái chết.
Cô nói rằng theo những người phụ nữ lớn tuổi trong cộng đồng, karanga chỉ được thực hiện bởi phụ nữ vì mối liên hệ cố hữu của họ với ba nữ thần, cũng như với Papatūānuku (Mẹ Đất).
“Ngā wahanga katoa me kapi te karanga,” cô giải thích, “te whenua, te kaupapa, te mate, me te ora.” (Một lời karanga phải bao hàm tất cả các khía cạnh này: đất đai, mục đích của dịp lễ, cái chết và sự sống.)
Lập luận của cô là nếu đàn ông được phép đảm nhận vai trò của phụ nữ, thì điều tương tự cũng áp dụng cho phụ nữ khi họ đảm nhận vai trò của đàn ông.
Vì mọi thứ phải được cân bằng và bình đẳng, cô nói bằng tiếng Māori, hãy giữ đúng vị trí của mình hoặc cho phép tôi làm điều tương tự.
Xét rằng whaikōrero (hùng biện) theo truyền thống là trách nhiệm của nam giới, chiến thắng của cô ở hạng mục tiếng Māori cấp cao Pei Te Hurinui càng trở nên đặc biệt ý nghĩa.
Theo 1news.co.nz